Hướng tới nhiều ngữ cảnh và tình huống hơn trong giảng dạy ngữ pháp

BBT: Dường như phương pháp luyện tập qua câu của một số thầy, cô dạy tiếng Anh vẫn đang rất phổ biến trong môi trường giảng dạy cấp 2, cấp 3. Thậm chí, học sinh đã được luyện tập rất nhiều kể từ lúc mới bắt đầu học tập. Phương pháp này liệu có thực sự hiệu quả hay không thì vẫn còn rất nhiều ý kiến tranh cãi. Tuy nhiên, bài viết dưới đây là một trong những bài nghiên cứu bác bỏ phương pháp này và đề ra một phương pháp thay thế khác. Mời các bạn đọc bài phiên dịch sau để có thêm một góc nhìn về vấn đề này nhé!

————-

Tóm tắt

Bài báo này trước tiên thảo luận về lý do tại sao các bài luyện tập theo từng câu vẫn được sử dụng rộng rãi trong việc giảng dạy ngữ pháp nhưng không thành công. Sau đây là phần trình bày về một sáng kiến tiếp cận; cụ thể là, sử dụng ngữ cảnh và tình huống để trình bày và thực hành ngữ pháp theo những cách thực tế và hiệu quả hơn.

Đặt vấn đề

Tại Hội nghị TESOL năm 2007 ở Seattle, Washington, tôi rất ngạc nhiên khi thấy nhiều sách giáo khoa ESL / EFL được trưng bày và bán trong các cuộc triển lãm sách vẫn đang sử dụng các bài tập cấp độ câu cho hầu hết mỗi bài học hoặc bài ngữ pháp. Các bài tập này bị tách rời khỏi các ngữ cảnh tự nhiên. Trong những bài tập ngữ pháp như vậy, người học thường được yêu cầu làm những thao tác tương tự như một trong những bài tập bên dưới:

Chọn từ đúng trong 2 hoặc 3 lựa chọn để điền vào chỗ trống.
VD: I ___ to school every day (a. Drives b. Drive c. driven)
Dùng từ trong hoặc kép và biến đổi thành dạng thích hợp để hoàn thành câu:
VD: John ___ to the store yesterday (walk).
Đổi câu sau thành dạng câu hỏi yes-no (a) hoặc đổi câu khẳng định thành câu phủ định (b)
John is a teacher -> Is John a teacher?
John is a teacher -> John is not (isn’t) a teacher.
Sắp xếp các từ theo thứ tự hợp lí để tạo thành câu
VD: (my, Mr. teacher, is, Johnson) -> My teacher is Mr. Johnson.
Đặt một từ cụ thể vào vị trí đúng trong câu.
VD: I go to see horror movies. (never) -> I never go to see horror movies.
Trả lời câu hỏi bằng một câu đầy đủ
VD: Where were you born -> I was born in Chicago.

Tôi có thể tiếp tục liệt kê những bài tập như vậy, nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã nêu rõ quan điểm của mình: Những bài tập như thế này không có ý nghĩa và cũng không xác thực. Một số độc giả có thể cảm thấy rằng bài tập số (6) ở trên khá giống với giao tiếp. Tuy nhiên, tôi cho rằng một bài tập như vậy thiếu tính xác thực và không mô phỏng giao tiếp thông thường.

Đầu tiên, một câu hỏi như “Bạn sinh ra ở đâu?” không phải tự dưng mà được hỏi. Nó thường là một phần của cuộc trò chuyện đang diễn ra với trọng tâm là tiểu sử, nơi những người đối thoại đang làm quen. Ngoài ra, một câu hỏi như vậy có thể bị ảnh hưởng bởi giọng của người nói, mà người nghe cảm nhận là khác với giọng của họ và không thể nhận dạng dễ dàng. Câu hỏi cũng có thể là một phần của một cuộc phỏng vấn chặt chẽ, trong đó người phỏng vấn có một danh sách các mục thông tin để thu thập từ người được phỏng vấn, ví dụ, ngày sinh, nơi sinh, nghề nghiệp hiện tại, v.v.

Thứ hai, một câu hỏi như vậy rất hiếm khi được trả lời bằng một câu đầy đủ. Tôi đã hỏi năm người nói tiếng Anh câu hỏi này và nhận được những câu trả lời sau:
1. ở St Paul
2. Nam Phi
3. trên Đảo Staten
4. Boston
5. Nhật Bản — cha tôi là một nhà truyền giáo. Không ai trả lời bằng một câu hoàn chỉnh. Người có câu trả lời dài nhất đã giải thích vì cô ấy biết câu trả lời của mình (tức là, Nhật Bản) là một câu trả lời bất thường và do đó cô ấy đã cố gắng làm rõ thêm.

Rất ít quy tắc ngữ pháp tiếng Anh dựa trên quyết định nội hàm của câu. Sau đây là danh sách khá đầy đủ các quy tắc cấp độ câu một cách máy móc như vậy:

1. Chia động từ theo từ hạn định (ví dụ: These books are mine)
2. Động từ theo dạng gerund sau giới từ (Ví dụ: We look upon reading books as an enjoyable activity)
3. Thể phản xạ của tân ngữ (ví dụ, Sue tự làm đứt tay mình.)
4. Chia động từ theo chủ ngữ (ví dụ, John đi bộ đến trường.)

Mặc dù các quy tắc này là thuộc cấp câu người học cần có khả năng áp dụng chúng trong quá trình tạo tình huống nói hoặc viết tiếng Anh và chúng tôi biết rằng điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác

Ngược lại, hầu hết các lựa chọn ngữ pháp mà người dùng tiếng Anh đưa ra phụ thuộc vào một loạt các yếu tố ngữ cảnh:
1. (các) người đối thoại
2. tình huống
3. Tình huống trước đó
4. kiến ​​thức được chia sẻ
5. ý định / mục đích / lập trường của người nói
6. chủ đề
7. phương thức (nói, viết, e-mail)
8. Giọng điệu (chính thức hoặc không chính thức), v.v.

Không có cách nào để các bài tập ở cấp độ câu có thể cung cấp cho người học ngữ cảnh đầy đủ để biết khi nào và tại sao sử dụng giọng bị động, xác định. mạo từ, thì hiện tại hoàn thành, mệnh đề quan hệ hoặc bất kỳ điểm ngữ pháp nào khác không có trong danh sách cấp độ câu được liệt kê ở trên. Chỉ những hoạt động học tập có ngữ cảnh sinh động và đầy đủ ý nghĩa mới có thể bắt đầu đạt được điều này.

Hơn nữa, chúng ta cần nhận ra rằng các câu riêng lẻ được trình bày riêng lẻ thường không rõ ràng về ý nghĩa và chức năng tình huống của chúng. Ví dụ: câu “Tôi đói” không chỉ có nghĩa là “người nói thông báo rằng mình cảm thấy đói cồn cào”, mà còn có những cách hiểu khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh:
1. Một đứa trẻ về nhà vào buổi trưa nói với mẹ của mình, đó là một yêu cầu cho bữa trưa.
2. Người ăn xin nói với một người qua đường với một bàn tay dang rộng, đó là một lời cầu xin tiền.
3. Trẻ vừa ăn xong và đòi ăn thêm. (nguồn: Celce-Murcia & Olshtain, 2000, tr. 20)

Các giải pháp dựa trên tình huống

Những đặc điểm nào khiến bài tập ngữ pháp phục vụ tốt hơn nhu cầu của người học tiếng Anh?

Nếu cần một số thao tác để khởi động, ít nhất hãy làm cho nó có ý nghĩa, được ngữ cảnh hóa và xác thực hợp lý về mặt sử dụng.
Ví dụ: Thực hành phủ định trong bối cảnh sửa chữa các phát biểu sai
A: I just found out that Juan is from Panama.
B: He’s not from Panama. He’s from Colombia.
A: Oh.

Nếu việc sử dụng một dạng ngữ pháp phụ thuộc vào ngữ cảnh trước đó cũng như khi sử dụng đại từ để ám chỉ, hãy đảm bảo cung cấp đủ ngữ cảnh để người học hiểu rõ điều này.
Ví dụ:
A: What’s up?
B: I’m looking for my (purse/car keys), and I can’t find (it/them). Have you seen (it/them)?
A: No, I haven’t.

Lưu ý rằng những đoạn hội thoại ngắn như vậy cũng ngữ cảnh hóa việc thực hành một số thì (thì hiện tại đơn, hiện tại tiếp diễn, hiện tại hoàn thành và hai dạng phủ định can’t và haven’t).

Tìm các văn bản thực cung cấp các dấu hiệu rõ ràng về hình thức ngữ pháp mà bạn muốn trình bày cho người học (để chuẩn bị cho việc luyện tập tiếp theo).
Ví dụ: Sử dụng một e-mail để trình bày việc đề cập đến tương lai thường được bắt đầu với “be going to” và sau đó được xây dựng chi tiết bằng “will / ‘ll”. Sau khi thảo luận và phân tích các hình thức trong tương lai, người học có thể viết các nội dung về tương lai của riêng họ và gửi nó qua e-mail cho các bạn cùng lớp cùng với một bản sao gửi cho giáo viên. Đây là một mẫu bài phân tích và thảo luận:

“Hi Sue!
How are you? I hope you’re fine. Guess what? I’m going to sing in the mixed chorus this year. I’ll have practice sessions on Wednesday evenings, and we’ll prepare pieces for several concerts and events during the year. We’ll even travel to Washington for a choral competition. It’ll be fun. What’s new with you?
-Best, Sally”

(Xem Celce-Murcia & Larsen-Freeman, 1999, chương 9 để biết thêm thông tin)

Giảng dạy ngữ pháp có thể được tích hợp với các nhiệm vụ được thiết kế để chuẩn bị cho người học trong các tình huống đọc và viết học thuật. Ví dụ: vì thể loại báo cáo chính thức cho phép sử dụng thể bị động, chúng ta có thể khai thác bài tập theo thể bị động trong bối cảnh làm việc theo cặp, trong đó các đối tác được yêu cầu khảo sát mỗi người năm người, kết hợp kết quả của họ và viết một báo cáo ngắn dựa trên một văn bản ví dụ.

Câu hỏi khảo sát: Bộ phim / cuốn sách / thành phố /, v.v. yêu thích của bạn là gì
Báo cáo: Mười người Mỹ được hỏi, “Thành phố yêu thích của bạn là gì?”
Ba thành phố ở Hoa Kỳ — New York, San Francisco và Boston — đã được đề cập hai lần, trong khi Seattle được trích dẫn một lần. Luân Đôn, Paris và Rome được chọn bởi một người tham gia khảo sát.

Một lưu ý liên quan, đối với những giáo viên nói rằng họ đã cố gắng sửa ngữ pháp bằng cách sử dụng các câu trong bài luận của học sinh, nhưng nó dường như không giúp được nhiều, chiến lược sau được đề xuất thay cho việc sửa từng câu. Ví dụ, để thực hành sửa các dạng động từ đã được học trên lớp, hãy đưa ra một bài tập như sau để người học quen với việc sửa lỗi trong văn bản mạch lạc (không chỉ trong câu), từ đó chuẩn bị tốt hơn cho họ để tự sửa bài làm của mình

Hướng dẫn: Làm việc với một đối tác để sửa tất cả các lỗi hình thức động từ trong đoạn văn này. Có sáu lỗi.

Văn bản: “Personal Digital Assistants are become very popular now. They not have a keyboard or a mouse. Most PDAs doesn’t have word processors, spread sheets, or databases. But PDAs has a datebook, a clock, a calculator, and a notebook. You can even go on the Internet with some PDAs. People sends and receives e-mails with these PDAs.”

(văn bản từ O’Sullivan, 2007: 219)

(Với một số người học, không nhất thiết phải đưa ra số lượng và loại lỗi. Giáo viên nên điều chỉnh mức độ khó phù hợp với lớp học).

Phần kết luận

Tôi kết luận bằng cách nhấn mạnh rằng việc giảng dạy ngữ pháp hiệu quả hơn nhiều khi được đặt trong một ngữ cảnh có ý nghĩa, được bao quanh bởi  tình huống xác thực (hoặc bán xác thực)

và được thúc đẩy bằng cách khuyến khích người học đạt được mục tiêu hoặc hoàn thành một nhiệm vụ thú vị. Hy vọng rằng tại các hội nghị TESOL trong tương lai, chúng ta sẽ thấy nhiều tài liệu về giảng dạy ngữ pháp đáp ứng các tiêu chí này bằng cách giảm sự chú trọng vào

bài tập ngữ pháp ở mức độ câu.

Nguồn: Towards More Context and Discourse in Grammar Instruction

Tác giả: Marianne Celce-MurciaUniversity of California, Los Angeles and American University of Armenia

Biên dịch: Đinh Trần Phương Anh.

1 bình luận “Hướng tới nhiều ngữ cảnh và tình huống hơn trong giảng dạy ngữ pháp

  1. Lỗi đánh máy: “…yêu cầu khảo sát mỗi người năm người” (bản tiếng Anh: “…to survey five people each”)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.